11 thg 11, 2010

NGƯỜI JẺ-TRIÊNG Ở ĐĂKGLEI

Với gần 3 vạn người, là dân tộc bản địa có dân số đứng thứ 3 tỉnh Kon Tum, người Jẻ - Triêng sống chủ yếu ở huyện Đăkglei, nơi tiếp giáp với tỉnh Quảng Nam bằng ngọn núi Ngok Linh cao vút quanh năm mây phủ. Nơi đây xưa kia là vùng rừng thiêng nước độc với bao nhiêu câu chuyện rùng rợn về tục “trả đầu”, “mùa săn máu”…Những năm đầu thế kỉ 21, con đường Trường Sơn công nghiệp hoá như một chiếc chìa khoá mở toang vùng đất nguyên sơ của vùng cực bắc Tây Nguyên này… 
Những cái “nhà đẻ” âm thầm bên suối vắng 


Một nhà đẻ còn sót lại...(Ảnh ĐTT)

Chuyện bắt đầu từ một ngày cuối năm 1982. Chiếc xe của Đồn biên phòng Đăk Long, huyện Đăkglei đang trên đường đi công tác thì có một thanh niên nhảy từ bụi rậm ra chặn đầu xe khẩn thiết van nài hãy cứu lấy vợ mình. Chiếc xe theo sự chỉ dẫn của anh thanh niên chạy thẳng vào rừng, tới chiếc chòi có người đàn bà đang chết thiếp trong vũng máu. Đến lúc ấy những người lính biên phòng mới biết, người Jẻ-Triêng ở đây có tục “đẻ rừng”. Không người đàn bà nào được phép đẻ trong nhà, bởi như thế sẽ mang xui xẻo đến cho cả làng. Đàn ông Jẻ - Triêng khi thấy vợ sắp tới ngày sinh thì vác dao vào rừng, chọn một nơi bên bờ suối dựng lên một chiếc “nhà đẻ” bằng cây lá, rồi mang gạo muối váy áo… bỏ vào đó là hết trách nhiệm. Đàn bà Jẻ - Triêng khi đau đẻ thì tự giác ra “nhà đẻ” thực hiện cuộc vượt cạn âm thầm: Tự mình quầy quã gồng siết trong cơn đau xé da rách thịt; tự mình dùng cật nứa cắt rốn cho con; tự mình mang con xuống suối tắm rửa; tự mình nổi lửa nấu cơm, lấy nước…Trong khi đó người chồng ở nhà uống rượu, yên tâm mọi việc đã có Yàng định liệu. Đúng mười ngày sau, người chồng mới vào rừng đón vợ con về. Biết bao nhiêu câu chuyện bi thương đã xảy ra từ tục “đẻ rừng” khắc nghiệt này. Có người chết khi chưa kịp sinh con. Có người sinh con xong thì chết và đứa bé cũng bị chôn theo mẹ. Có người sinh đôi, sinh ba đành phải giết chết những đứa con vì coi đó là điềm xấu làm hại cả làng. Và không hiếm trường hợp khi người chồng vào rừng đón vợ con chỉ gặp một chiếc “nhà đẻ” trống không vương những vệt máu thê thảm. Tục “đẻ rừng” đã có từ ngàn đời và người dân ở đây mặc nhiên chấp nhận.
 
Đã có một vài người muốn phá bỏ tục “đẻ rừng” nhưng rồi sợ bị đuổi khỏi làng nên lại thôi. Người Jẻ -Triêng đầu tiên dám cưỡng lại hủ tục này là một phụ nữ từng là thanh niên xung phong thời kì chống Mĩ. Chị tên là Y Chảy, người xã Đăk Môn huyện Đăkglei. Ngày 4-8-1989, chị đã dũng cảm giành lại đứa bé tên là A Trình khi mẹ cháu vừa chết trong “nhà đẻ” giữa rừng mang về nuôi. Và ngày 4-6-1999 chị lại giành được đứa bé thứ hai con của một người đàn bà tên là Y Sương mới chết trong “nhà đẻ”, bị bố nó là A Ban đồng ý cho chôn chung với mẹ. Là người có một nhận thức tiến bộ, nhưng dù sao Y Chảy vẫn là người dân tộc Jẻ-Triêng nên chị cũng chỉ dám dừng lại ở việc cứu người.  
 
Người đầu tiên dám tuyên chiến với hủ tục “đẻ rừng” là một y sĩ biên phòng trẻ măng vừa mới ra trường. Những ai thường xuyên theo dõi truyền hình hẳn sẽ không thể nào quên một nhân vật có tên là Nguyễn Văn Huy trong chương trình Người đương thời mới phát gần đây. Hơn hai mươi năm công tác ở các đồn biên phòng thuộc huyện Đăkglei, Nguyễn Văn Huy đã để lại một ấn tượng không thể phai mờ. Là một thầy thuốc, chứng kiến những cảnh tượng đau lòng do tục “đẻ rừng” gây ra, Nguyễn Văn Huy đã trăn trở suy nghĩ rất nhiều. Anh đã đề nghị Đồn biên phòng Đăk Long dựng một cái…“nhà đẻ” cạnh đồn và tình nguyện làm “bà đỡ”. Nguyễn Văn Huy treo trước cái “nhà đẻ” ấy một cái kẻng. Bất kể giờ giấc ngày hay đêm, khi tiếng kẻng vang lên là anh có mặt. Do tập quán “đẻ rừng” đã ăn sâu vào máu thịt người dân nơi đây nên ban đầu tìm đến “nhà đẻ của bộ đội” chỉ là những ca cấp cứu: Thai ngôi ngược, băng huyết, kiệt sức khi sinh…, dần dần những người đàn bà Jẻ - Triêng đã vượt qua được tập tục, vượt qua nỗi xấu hổ để tìm đến với “nhà đẻ của bộ đội”. Đến bây giờ, Nguyễn Văn Huy đã nghỉ hưu ở thị xã Kon Tum. Ông không nhớ chính xác mình đã đỡ bao nhiêu ca đẻ cho những người đàn bà ở xã Đăk Long. Ông nói rằng, điều tâm đắc nhất trong cuộc đời làm thầy thuốc của ông là đã giúp đồng bào ở đây thay đổi nhận thức. Qua những ca đỡ đẻ thành công của ông, đồng bào Jẻ - Triêng ở Đăk Long đã dần tin vào thầy thuốc. Có thể nói, cùng với người cựu thanh niên xung phong Y Chảy, Nguyễn Văn Huy đã làm công việc “dọn đường” cho các trạm y tế sau này tiến vào các xã vùng sâu ở Đăkglei đẩy cái tục lệ “đẻ rừng” khủng khiếp lùi tít vào dĩ vãng. 
 
Những ngôi mộ lơ lửng trong rừng rậm
 
Vào một ngày mùa khô nóng bức năm 2000, một nhà báo trên đường công tác vô tình ngồi nghỉ bên con dốc đá có cái tên rất rợn: Dốc Ma. Nhà báo bỗng cảm thấy xây xẩm mặt mày bởi không khí oi nồng ngột ngạt bốc ra ngùn ngụt từ khu rừng. Máu phiêu lưu đã dẫn đôi chân nhà báo tiến vào, và một bài viết kèm ảnh đã gây xôn xao dư luận. Xã Đăk Long huyện Đăkglei là nơi duy nhất ở Việt Nam có tục táng treo. Những chiếc quan tài độc mộc được treo lơ lửng trong rừng rậm...

Trước khi lên Đăk Long để được tận mắt nhìn thấy những ngôi mộ treo, tôi đã sục vào Internet để tìm hiểu các hình thức táng trên thế giới. Người Eskimo ở Bắc cực có tục “gấu táng”: Người sắp chết tự giác ra ngồi ngoài trời băng giá. Người Eskimo lấy làm hạnh phúc nếu được một con gấu tuyết đến ăn thịt, bởi như thế thịt xương mình sẽ hoá thành thịt xương con gấu, con cháu mình sẽ ăn thịt con gấu và máu thịt của mình lại hoà vào máu thịt của cháu con, do đó sự sống được nối dài bất tử. Người dân trên cao nguyên Nội Mông mang người chết phơi giữa thảo nguyên để bầy sói về ăn thịt và gọi đó là “sói táng”. Người dân Tây Tạng xẻ thịt người chết tung lên trời cho diều, quạ, kên kên… ăn, gọi là “điểu táng”…Rồi các hình thức “địa táng”, “hoả táng”, “thuỷ táng”…Rất nhiều cách gọi khác nhau nhưng xét về mặt bản chất thì chỉ có mấy loại cơ bản: Một, chôn xuống đất hoặc dìm xuống nước để cơ thể người chết tự phân huỷ. Hai, cho động vật ăn thịt. Ba, dùng lửa để hoá cơ thể người chết. Như vậy tục táng treo của người Jẻ -Triêng ở Đăk Long không thuộc nhóm nào kể trên. Người chết ở đây không được chôn xuống đất nhưng cũng không để ngoài trời cho chim thú ăn thịt, mà được đặt trong quan tài chắc chắn rồi treo lên cây. Hình thức này từa tựa kiểu “huyền quan táng” (cho người chết vào quan tài gỗ rồi treo lên vách núi đá) hoặc “động táng” (cho người chết vào quan tài gỗ rồi đặt trong hang núi) của bộ tộc Dogona châu Phi hay người Bặc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc?
 
Đêm đầu tiên lên xã Đăk Long, tôi đã tìm đến nhà một ngươì già nhất ở làng Vai Trang. Đó là nhà cụ A Jap. Cụ năm nay hơn chín mươi tuổi, nhưng theo cách tính của người Jẻ-Triêng thì cụ mới chỉ… 7 tuổi thôi. Là bởi người Jẻ -Triêng tính tuổi theo mùa rẫy. Cứ khoảng 13 mùa rẫy thì đánh dấu một khấc lên cột nhà và tính là một tuổi. Cụ A Jap đã yếu lắm rồi, hàng ngày chỉ nằm một chỗ hút rượu cần, nhưng khi biết tôi muốn tìm hiểu nguồn gốc tục táng treo, cụ vui vẻ ngồi dậy. Cái miệng cà răng sát tận lợi bắt đầu phóm phém kể một câu chuyện:
 

                                       Cụ A Jáp: Chuyện xưa kể rằng...

Từ lâu rồi, có một nhà có hai anh em trai. Khi bố mẹ chết, hai anh em chia nhau tài sản và ra ở riêng. Người anh vốn khôn ranh nên làm nghề buôn người. Hễ trong làng có người nào lười biếng, neo đơn thì bắt sang đổi cho người Lào lấy trâu, chiêng ché quí đem về. Người em thật thà chất phác nên dùng số của cải được chia để đổi trâu bò gà heo về chăn, mua hạt giống về trỉa. Một thời gian sau cả hai anh em đều trở nên giàu có nhưng dân làng không biết ai giàu hơn ai. Người anh bèn nghĩ ra một cách và nói với người em, hai chúng ta ai xây được một cái nhà mà tường bằng thịt trâu thì người đó được coi là giàu hơn. Người em nhận lời. Họ mời dân làng đến uống rượu chứng kiến cho cuộc thi. Người anh hùng hổ cắt từng tảng thịt lớn ném lên khung nhà đã được dựng bằng lồ ô. Những miếng thịt trâu tươi ròng bay vù vù, chạm khung lồ ô rồi rớt bịch xuống đất, máu me ngập ngụa. Cậy nhà nhiều trâu, người anh ngả hết con trâu này tới con khác với một quyết tâm chiến thắng điên cuồng. Nhưng suốt một ngày mà những “bức tường thịt” của người anh cứ xây lại đổ. Còn người em thì chỉ ngả một con trâu, khéo léo thái thịt thành những miếng rộng bản, mỏng đẹp như phiến lá. Người em tung những miếng thịt đều tăm tắp lên. Những miếng thịt nhẹ nhàng bay loang loáng và đậu dính vào vách như những bông hoa rừng tươi rói trong tiếng trầm trồ của dân làng. Chẳng mấy chốc ngôi nhà của người em đã được xây xong. Người anh thua cuộc cay cú nói: “Nó là đứa nghèo hơn tôi nên mới phải thái thịt trâu mỏng như thế. Dù nó thắng cuộc nhưng tôi mới là người giàu nhất làng. Ai muốn giàu có thì theo tôi đi lập làng khác”. Dân làng chia làm hai nhóm. Nhóm theo người em tìm đến một con suối có nhiều lau lách thì dừng lại lập nên làng Vai Trang. Vai Trang, tiếng Jẻ-Triêng có nghĩa là con suối có nhiều lau lách. Làng Vai Trang lấy trồng trọt và chăn nuôi làm nghề chính, sống đoàn kết vui vẻ với các làng khác xung quanh. Nhóm theo người anh lập làng sát biên giới hành nghề buôn bán nên rất nhanh giàu. Nhưng rồi một ngày kia, ngôi làng của người anh đã xảy ra tranh chấp và đã bị một bộ tộc khác mang gươm giáo đến giết sạch. Còn làng Vai Trang của người em thì cuộc sống mãi bình yên bên cạnh con suối hiền lành đến tận bây giờ. Để ghi nhớ công ơn của người thủ lĩnh có đức tính cần kiệm khiêm tốn đã mang lại hạnh phúc lâu bền, khi ông qua đời, dân làng Vai Trang khiêng ông ra rừng rồi khóc lóc thảm thiết bao nhiêu ngày mà không nỡ chôn. Họ nghĩ một người đáng kính như ông không thể chôn xuống đất cho con giun con dúi con kì đà ăn mất. Họ bèn nghĩ ra cách treo chiếc quan tài lên cây để không con gì có thể ăn được, như thế linh hồn người thủ lĩnh sẽ ở mãi với dân làng. Đó là ngôi mộ treo đầu tiên ở làng Vai Trang. Dần dần người các làng khác của xã Đăk Long cũng bắt chước người làng Vai Trang treo quan tài của những người đáng kính lên cây, tạo thành một tục lệ ...      

 
 
Mộ treo năm trước...(Ảnh Nguyễn Minh Sơn)
  
Trung uý Phạm Xuân Hùng, Đội trưởng đội trinh sát Đồn biên phòng Đăk Long phăm phăm cắt rừng dẫn tôi tới khu Rừng Ma. Hùng mới ra trường, về đồn mới được mấy năm nên cũng giống tôi, tức là chỉ nghe nói về một khu rừng có những ngôi mộ treo của người Jẻ - Triêng thôi chứ chưa một lần nhìn thấy. Khu rừng toàn le rậm rịt cùng vô số muỗi vắt vo ve cũng không ngăn được quyết tâm khám phá của chúng tôi. Trước khi đến Rừng Ma, tôi và Hùng đã khẩn khoản nhờ một người đàn ông Jẻ - Triêng dẫn đường, nhưng chỉ mới nghe nói đến hai tiếng “Rừng Ma” mặt mày người đàn ông đã tái dại. Ông lập bập nói không ra hơi: “Ôi…mình sợ lắm! Mình không dám vô đó đâu. Vô đó con ma nó bắt mình mất thôi…”. Vậy là tôi và Hùng đành phải mò mẫm. Hùng dùng hết nghiệp vụ trinh sát ra cắt hướng và phán đoán. Còn tôi dùng hết ngũ quan để mò tìm. Khu rừng ẩm ướt âm u rờn rợn có một sức cuốn hút tôi kì lạ. 
 
Đêm qua, sau khi ngồi hỏi chuyện cụ già A Jap, chúng tôi kéo đến nhà ông A Nhôm, nguyên bí thư Đảng uỷ xã Đăk Long. Tôi làm một phép thử bằng câu hỏi “Nghe nói bây giờ dân làng Vai Trang vẫn còn tục táng treo?”, ông A Nhôm trợn mắt quát lên: “Ai nói với chúng mày thế? Bỏ lâu rồi. Nhà báo chúng mày là hay viết bậy viết bạ lắm. Không thèm nói chuyện nữa!”. Nét mặt A Nhôm phừng phừng tức giận khiến tôi phải xin lỗi mãi và giải thích rằng, tôi chỉ muốn tìm hiểu tục lệ này dưới góc độ văn hoá thôi, chứ không có ý nào khác. Cuối cùng ông A Nhôm đã nguôi giận. Ông cho biết, tục táng treo nơi đây thực ra mang ý nghĩa xã hội nhiều hơn tâm linh. Làng Vai Trang trong câu chuyện cổ mà cụ già A Jap đã kể đến nay là cả một thời gian dài ngút ngát không xác định; từ ngôi mộ treo đầu tiên xuất phát bởi lòng tôn kính vị thủ lĩnh lập làng cho đến nay đã có cả hàng trăm ngôi mộ treo nhưng người chết hoàn toàn không phải là một già làng hay một nghệ nhân tài giỏi, mà đơn giản chỉ là…những người giàu! Theo lời ông A Nhôm thì chỉ có những nhà giàu mới đủ điều kiện để tổ chức táng treo cho người chết. Chỉ có những người giàu mới đủ tiền mua những cây gỗ quí to bằng cả mấy vòng ôm rồi thuê người đục đẽo chạm trổ thành hình những con thú lớn. Chỉ có những người giàu mới đủ tiền mua mấy con trâu ngả ra đãi cả làng ăn uống linh đình cả tháng trời... Trung tá Hoàng Văn Bằng, Chính trị viên Đồn biên phòng Đăk Long cũng khẳng định như thế. Anh cho biết, hơn chục năm về trước, khi những bài báo phản ánh tục lệ táng treo ở đây, Đồn biên phòng Đăk Long đã tiến hành tìm hiểu rất kĩ chuyện này. Bởi đây là một vấn đề văn hoá hết sức nhạy cảm. Phải hiểu rõ bản chất của vấn đề mới có thể giải quyết một cách hợp tình hợp lí. Mỗi dân tộc có một nền văn hoá khác nhau cần phải được tôn trọng. Những ứng xử thô bạo sẽ mang lại những hậu quả khôn lường. Khu rừng ma của làng Vai Trang nằm ngay cạnh đường vào xã Đăk Long nên xét về góc độ vệ sinh môi trường thì tục táng treo không thể chấp nhận được. Nó sẽ là mối nguy cơ lớn cho những trận dịch kinh hoàng có thể giết chết nhiều người, thậm chí cả một làng.
 
Sau nửa ngày cắt ngang cắt dọc khoảng rừng le rậm rạp, chúng tôi đã không tìm được những chiếc quan tài treo lơ lửng nơi rừng rậm, mà chỉ gặp rải rác những đồ tuỳ táng như ghè, xoong, dao, nỏ…đã bị đập vỡ, bẻ cong bên cạnh dấu tích những chiếc quan tài đã không còn hình thù. Theo lời ông A Nhôm thì từ khi bộ đội biên phòng cũng xã Đăk Long vận động, bà con không treo quan tài trên cây nữa. Những ngôi mộ treo cũ đã theo thời gian mà mục nát. Năm ngoái cả “Rừng Ma” chỉ còn 11 cái quan tài treo, nhưng vụ cháy rừng vừa rồi đã thiêu hết cả.
 

 
...Mộ chờ năm nay...(Ảnh ĐTT)
 
Vụ cháy rừng vô tình đã tác động rất mạnh đến suy nghĩ của những người vẫn nặng lòng với tục táng treo. Bởi thế nên trong “Rừng Ma” bây giờ chúng tôi đã gặp những ngôi mộ mới với nấm đất vun cao, mái lợp tôn thấp thoáng dưới tán lá rừng. Cứ nhìn vào kích cỡ những ngôi nhà mồ có thể đoán được hoàn cảnh gia chủ. Phần lớn những ngôi mộ là chôn trực tiếp xuống đất như cách “địa táng” phổ biến của người Kinh. Một vài nhà khá giả thì xây mộ như một hầm ngầm bằng xi măng trong lòng đất rồi treo quan tài lửng lơ trong đó và đậy kín bằng nắp bê tông. Thi thoảng chúng tôi bắt gặp những ngôi mộ đã xây sẵn, hầm bê tông vuông vức, mái lợp tôn rất đẹp. Như vậy là tục táng treo của người Jẻ-Triêng ở xã Đăk Long huyện Đăkglei, xét về mặt bản chất là vẫn tồn tại nhưng đã biến thái sang một hình thức khác chấp nhận được.
 
Những bó củi xoè hoa trên lưng thiếu nữ
 
Trên đoạn đường Trường Sơn công nghiệp hoá hơn 100km chạy dọc huyện Đăkglei có nhiều đống củi rất đẹp trong các ngôi làng của người Jẻ -Triêng sinh sống. Nhà nào có đống củi chắc chắn nhà đó có con gái đến tuổi lấy chồng. Con gái Jẻ - Triêng từ lúc 14-15 tuổi khi đi rừng thường để ý tìm những cây dẻ có đường kính từ 20-30cm, chặt đều chằn chặn dài cỡ 80-90 cm, đầu mỗi khúc củi được nêm cho nứt thành hình những cánh hoa xoè. Nhìn những thiếu nữ Jẻ-Triêng gùi củi có cảm giác như các cô đang cõng một gùi hoa đung đưa, đung đưa...
 
Đại uý ATỉnh, đội trưởng đội vận động quần chúng Đồn biên phòng Đăk Long là người Jẻ - Triêng. Tục xưa của người Jẻ - Triêng qui định: Trai gái đủ tuổi thì được phép được tìm vợ tìm chồng. Người con trai vào rừng săn bắn, lấy đầu thú về treo lên vách nhà rông. Con thú càng dữ thì chàng trai càng được dân làng kính trọng. Nhìn vào số đầu thú biết chàng trai có tài săn bắn đến đâu, đủ sức làm chồng làm cha, đủ sức chiến đấu bảo vệ buôn làng hay không. Còn các cô gái khi đến tuổi thì vào rừng chặt một trăm bó củi gùi về. Nhìn vào những bó củi người ta biết cô gái ấy có khéo léo đảm đang, có đủ sức dẻo dai để làm vợ làm mẹ, để trỉa lúa, trồng bông dệt vải hay không... Tục xưa là thế, nhưng bây giờ nhà nước cấm săn bắn nên ATỉnh không có điều kiện thể hiện bản lĩnh. Nhưng bù lại, anh đã trúng tuyển bộ đội biên phòng, oách nhất làng nên bị Y Mốt “chấm” trước ngày nhập ngũ. A Tỉnh chấp nhận cho Y Mốt “bắt làm tù binh” sớm bởi Y Mốt là cô gái vừa xinh đẹp vừa khéo léo. Ngày cưới, Y Mốt gùi sang nhà A Tỉnh đủ 100 bó củi dẻ đẹp nhất cùng với 30 cây xà nu làm vật dẫn cưới. Trong ngày cưới đó, những bó củi của Y Mốt được già làng tiến hành những nghi thức linh thiêng như vẩy rượu, rắc muối lên và đọc những lời khấn nguyện tốt lành cho đôi trẻ. Rồi những bó củi ấy đã được dùng để đun nấu và sưởi ấm dân làng đến dự cưới suốt mấy ngày.
  
 
Củi này dành để bắt chồng...(Ảnh ĐTT)

Đó là năm 1993. Bây giờ thì họ đã có hai mặt con, một trai một gái. Đúng như dự đoán của dân làng trước ngày ATỉnh và Y Mốt lấy nhau, đôi trai tài gái đảm này đã xây dựng được một gia đình hạnh phúc. Ngôi nhà của họ thuộc hàng khang trang nhất xã Đăk Long. Chị Y Mốt e thẹn kể về những chuyến cõng củi âm thầm hàng năm trời nhằm chiếm được cảm tình của A Tỉnh. Và chị cũng cảm thấy không ưng bụng với việc ngày nay các cô gái Jẻ- Triêng “yêu nhau hiện đại quá”. Họ không còn kín đáo như ngày xưa anh chị tỏ tình với nhau. Họ không cần phải vất vả lặng lẽ gùi củi một mình như chị trước đây. Bây giờ có người chưa kiếm đủ củi nhưng đã vội vàng cưới. Họ phải nhờ chị em, bạn bè kiếm giúp củi cho đủ số lượng…
 
Như để chứng minh cho lời nói của mình, chị Y Mốt chỉ tay ra đường. Một tốp thiếu nữ Jẻ - Triêng đang chuyển củi bằng…xe cút kít! Tôi chạy ra toan chụp mấy tấm hình nhưng cô gái mặc áo phông đỏ giơ tay che mặt. Tôi phải đẩy giúp xe củi lên hết một con dốc dài mới được các cô tiếp chuyện. Hóa ra cô gái áo đỏ không phải là cô dâu. Cô cùng bạn bè chuyển củi giúp cô bạn gái vì đã cưới gấp nên mới có 30 bó cho nhà trai, giờ phải chuyển nốt 70 bó cho đủ. Thảo nào những bó củi này vẫn còn tươi nguyên và chưa hề được nêm trang trí.
Chiều hôm đó chúng tôi ghé thăm nhà của ông già cựu chiến binh A Cap. Vừa bước vào nhà tôi nhìn thấy cô gái Jẻ-Triêng đang bò xoài ra sàn viết…thiếp mời! Việc viết thiếp mời giữa chốn núi rừng này thấy hơi ngồ ngộ. Ngộ bởi vì trước đây những việc báo tin cưới hỏi chỉ cần gióng lên một hồi chiêng là dân làng tự cõng rượu, ôm gà đến chia vui.


Nhanh nhanh nhanh là nhà nhanh nhanh...(Ảnh ĐTT)

Tôi cầm một tấm thiếp lên đọc. Chú rể A Đep, con trai già A Cap. Cô dâu là Y Ná, người đang méo môi méo miệng vất vả viết từng dòng chữ trên chiếc thiếp mời sặc sỡ kia. Ông già A Cap bảo, chúng nó cưới theo phong tục một tháng trước đây rồi. Còn bây giờ chúng nó đòi cưới thêm theo kiểu mới. Ông chỉ tay ra trước sân, nơi có một vạt đất lớn được san phẳng. Nơi đó sẽ được dựng rạp, căng phông, thuê loa đài xập xình để cho thanh niên nhảy. Ông nói từ ngày con đường Trường Sơn công nghiệp hoá mở qua đây, nhiều cái đổi thay lắm!
 
Ông già A Cáp nói câu đó bằng giọng vừa vui vừa buồn. Có lẽ ông đã hiểu rằng, đó là qui luật không thể cưỡng lại được của quá trình giao lưu văn hoá. Cuộc sống hiện đại đã ùa tới nơi này và thanh niên bao giờ cũng là lớp người năng động. Họ tiếp nhận có phần vồ vập nhưng cũng hồn nhiên đến đáng yêu. Chứng kiến hình ảnh những chàng trai cô gái Jẻ-Triêng ăn mặc theo mốt mới, uống rượu đế, hát nhạc trẻ và đội mũ bảo hiểm phóng xe máy ào ào trên những con đường rừng lầm bụi đỏ, hẳn những người yêu nét đẹp cổ sơ sẽ lấy làm quyến luyến với tiếng kể khan bổng trầm của già làng bên bếp lửa trong những đêm huyền bí; sẽ vấn vương với những dáng vóc trai gái Jẻ-Triêng trang phục thổ cẩm xoắn xuýt lấy nhau trong vũ điệu hoang dại dưới trăng rừng; sẽ thèm nghe tiếng cồng chiêng rộn rã, sẽ thấy khát những dòng rượu cần tuôn như bất tận dưới sân nhà rông trong những dịp hội làng… Thiếu tá Đồn trưởng Đồn biên phòng Đăk Long Lê Văn Nhì bày tỏ quan điểm về vấn đề này: Không nên quá lo lắng về những gì đang diễn ra. Trong quá trình vận động, chúng tôi nhận ra một điều, đồng bào Jẻ-Triêng ở đây rất nhạy cảm với cái mới nhưng cũng rất biết quí trọng nâng niu những giá trị cũ. Những hủ tục đương nhiên sẽ bị đồng bào từ bỏ và những phong tục đẹp đồng bào rất có ý thức giữ gìn. Như chuyện những bó củi chẳng hạn. Củi gắn liền với lửa nên nó được người Jẻ-Triêng coi là sự sống vĩnh cửu. Thực ra thì đồng bào ở đây không chỉ dùng củi trong việc cưới hỏi, mà còn trong nhiều việc khác như hoà giải, xin đất, cất nhà…. Dù dùng củi trong việc gì thì đồng bào Jẻ - Triêng cũng coi củi là sứ giả của thiện chí với những mong muốn tốt lành. Có một chuyện rất thú vị tôi muốn kể anh biết: Ngày 3 tháng 3 là kỉ niệm ngày Thành lập Bộ đội Biên phòng, năm nào Hội phụ nữ xã Đăk Long cũng cho một đoàn chị em gùi củi lên tặng đồn. Mấy chục chị em xinh đẹp mặc thổ cẩm cõng những bó củi xoè hoa đi thành một hàng dài mềm mại tiến vào cổng đồn. Đẹp lắm!...
Tây Nguyên-Hà Nội cuối năm 2007

Tags:

0 Responses to “NGƯỜI JẺ-TRIÊNG Ở ĐĂKGLEI”

Blogroll

VĂN HÓA NGƯỜI VIỆT

Vanhoanguoiviet.com muốn gửi tới cho các bạn phong tục, tập quán,làng nghề, trang phục cũng như món ăn cổ truyền của người Việt từ xưa tới nay.

Được phát triển bởi Nguyễn Hiền|