26 thg 10, 2010
Áo dài, nón bài thơ - nét duyên thầm xứ Huế
Ở xứ nắng lắm, mưa nhiều, người buôn thúng bán bưng cũng vương nét đoan trang. Những tấm áo dài bạc màu vì một nắng hai sương, nối vạt, nối tay vì thiếu vải hay may bằng nhung điều quyền quý, người phụ nữ ở đây vẫn dịu dàng đến nhẹ nhàng như mây, hiền như lúa, e ấp, thơm như e ấp, nhẹ như mây, hiền như lúa, thơm như sen mùa hạ trong hồ Nội đô.
Áo dài Huế thời trước 1945 không chỉ khác với áo dài Hà Nội, Sài Gòn, mà tự thân nó còn đa dạng hoá cho phù hợp với vị trí xã hội, đặc thù lao động của nhiều tầng lớp phụ nữ Huế. Chiếc áo dài Huế cách điệu làm tôn vẻ đẹp của Nam Phương Hoàng hậu trong Tử Cấm Thành. Chiếc áo dài "nối thân" để dễ thay thế khi sờn mòn vì lao động không làm giảm đi vẻ dịu dàng duyên dáng của cô gái chèo đò trên sông Hương... Áo dài sớm có vị trí đặc biệt với phụ nữ Huế bởi sắc lệnh vua Minh Mạng ban hành và bởi nếp sống vương giả, điều kiện sinh hoạt của người dân đất đế đô. Các huyện ngoại thành Huế như Hương Trà, Phú Vang vẫn còn tên tuổi, dấu tích các làng dệt sản xuất các mặt hàng vóc, sa, lĩnh, gấm... và những làng thêu danh tiếng như Sơn Điền, Dương Xuân..., tất cả đã tạo nên một phong cách riêng biệt và nổi bật.
Cuộc đời bà Nguyễn Thị Duyên Sanh (52 tuổi, cựu nữ sinh Đồng Khánh, giáo viên trường THCS Hai Bà Trưng sau này), tấm áo dài là phần không thể thiếu. Bà Sanh mặc áo dài lần đầu tiên khi tròn 16 tuổi, lúc ấy Huế vừa qua cơn bão lịch sử Tổng tiến công nổi dậy Xuân 1968. Chiếc áo ấy được chị gái bà may tay bằng vải mộc trắng đục, cổ vuông ngắn, eo buông, tay dài, tà rộng che kín toàn thân, mộc mạc đúng kiểu đồng phục nữ sinh Đồng Khánh thời bấy giờ.
Nếu chiếc áo chỉ là một kỷ vật thời hoa phượng, bà Duyên Sanh sẽ không nâng niu cẩn thận đến 36 năm nay. Chiếc áo mở đầu giai đoạn tuyệt diệu nhất trong đời bà: kể từ đây, cô bé Duyên Sanh trở thành người lớn, không còn mặc áo cộc ra đường và bắt đầu được phép coi áo dài như trang phục duy nhất khi rời cổng như mọi phụ nữ trưởng thành đất Cố Đô những năm trước 1975. Cũng từ đây, trong tà áo dài mềm mại mà khá cồng kềnh, phiền toái với người thiếu ý tứ, bà Sanh và các thiếu nữ cùng lứa giữ gìn dáng đi, cách đứng, nết ngồi sao cho luôn nhẹ nhõm. Khi được mời ngồi, họ ý tứ đưa mắt nhìn mặt ghế, khẽ vén vạt áo sau lên rồi mới nhẹ nhàng ngồi xuống. Những ngón tay mềm xếp tà trước, kéo thẳng thớm trên gối cho trang trọng và ưa mắt. Sau này, khi điều khiển xe máy, xe đạp, phụ nữ Huế cũng có những động tác cẩn trọng mà duyên dáng tương tự. Bà Sanh nói, trong chiếc áo dài, người phụ nữ cảm nhận niềm tự hào đức hạnh và ý thức giữ gìn đức hạnh ấy. Với kiểu dáng bó sát thân, chiếc áo giúp họ rèn luyện nét e ấp trời sinh. Trong tà áo dài, ai cũng buộc phải khép nép, chỉ có thể ngồi thẳng, bước ngắn, đánh nhẹ tay, khó có thể nói cười thoải mái như khi mang đồ đầm, đồ kiểu. Ngay cả các nữ sinh, tuy đồng phục không bó sát người, vẫn tự thấy phải giữ gìn cử chỉ, cử động nhẹ nhàng hơn. Một chút thiếu cẩn trọng cũng có thể làm nhăn vạt, rách tà. Một vệt đất nhỏ trên áo trong mỗi giây lơ là cũng có thể đập ngay vào mắt người đối diện. Chưa nói đến những tác động của thời tiết ở Huế - xứ mưa lắm, nắng nhiều; vạt áo có thể ướt đẫm nước mưa mùa đông, lấm tấm mồ hôi mùa hạ.
Thế nên, theo bà Duyên Sanh, loại trang phục bắt buộc và bó buộc này vô tình giúp người mặc trở nên ''mềm'' hơn. Bà từng quen con gái cố nhà thơ - họa sĩ Hải Bằng, một ''nàng'' nổi tiếng nghịch ngợm, cũng thành ''hiền'' sau một thời gian bị cha buộc chỉ mặc áo dài, trừ lúc ngủ. Không biết có phải vì bản tính e lệ của phụ nữ Huế không, mà bà Duyên Sanh cứ đẩy ''tiếng thơm'' của ''một nửa thế giới'' xứ mình cho chiếc áo dài đến vậy. Lớp thế hệ trước, rồi bà Duyên Sanh và các bạn học trường Đồng Khánh, từ những bà vợ quan trong triều, những tiểu thư khuê các mưa không đến mặt, nắng chẳng đến đầu, quanh năm trong phòng the, cung cấm đến các chị buôn thúng bán bưng với những gánh bún bò, cơm hến, bánh canh, những giỏ trái cây, xách bánh bèo, bánh lọc một nắng, hai sương từ mọi nẻo ngoại ô Văn Thánh, Kim Long, Nam Giao, Nguyệt Biều, Vĩ Dạ, lên những chuyến đò Thừa Phủ hay 14 tuyến xe buýt tỏa về các chợ nội thành... ai nấy đều kín đáo đến cao sang, nhỏ nhẹ đến nhẫn nhịn, rất Huế.
Trang phục cung đình Huế xưa |
Áo dài xứ Huế | Áo dài xứ Huế |
Cùng với sự nền nã của màu sắc, vẻ kín đáo của kiểu dáng nét dịu dàng quý phái trong cử chỉ người mặc, chiếc áo dài tím với tà áo lồng lộng gió (như lời hát của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn) cùng vành nón lá che nghiêng mái tóc thề không biết tự bao giờ thành hình ảnh khó có thể thiếu khi người ta nhắc đến xứ sông Hương núi Ngự.
Các bạn người nước ngoài của nhà văn Bửu Ý (một người Huế gốc) từng ngưỡng mộ thốt lên: ''Không đâu có loại trang phục nữ nào kín đến thế, cũng không có loại áo nào hở cho bằng, nhất là khi khoác trên mình những cô gái dịu hiền xứ Huế''. Bởi đủ dài tha thướt để hút ánh mắt người ta theo vóc dáng thanh tao như bay, như múa trên phố. Đủ kín để người ta ước tìm chỗ nhô, chỗ hở. Càng đủ nhẹ để người ta thấy sức nặng quyến rũ của ánh mắt trong sáng,cử chỉ duyên dáng,nụ cười e ấp rồi cảm nhận trái tim nhân hậu dịu dàng của người phụ nữ vùng non thanh thủy tú này. Ngoài áo dài, những phụ nữ Huế còn có chiếc nón bài thơ duyên dáng. Chiếc nón bài thơ ngày nay cũng là kết quả của nhiều lần sàng lọc, qua thực tế sử dụng che nắng, che mưa. Để làm ra những chiếc nón đẹp,những người thợ làm nón phải chọn những lá non của cây cọ đem phơi khô, là phẳng để lợp nón. Bên trong lớp lá trắng ngần như lụa là hình ảnh con đò, bến nước quê hương và vần thơ quen thuộc.
Tôi là Nguyễn Hiền
Mong chia sẽ những điều bổ ích về Văn Hóa Người Việt tới các bạn. Mong sự chia sẽ tới của bạn tại Facebook
Get Updates
Subscribe to our e-mail newsletter to receive updates.
0 Responses to “Áo dài, nón bài thơ - nét duyên thầm xứ Huế”
Đăng nhận xét